Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú 79 mùa Xuân của Bác Hồ có nhiều sự kiện đặc biệt quan trọng. Sự kiện trưa ngày mồng 2 Tết Tân Tỵ (28/01/1941) Người vượt qua biên giới Việt – Trung về nước là một trong những sự kiện ấy, đã đi vào lịch sử dân tộc như một trong những dấu ấn đặc biệt quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam, từng bước đưa dân tộc Việt Nam đi tới những mùa Xuân đất nước….
Về nước, “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”… luôn là khát khao cháy bỏng của Bác Hồ trong những năm tháng hoạt động ở nước ngoài. Nhưng để thực hiện khát vọng ấy, Người đã phải trải qua một chặng đường dài đầy gian lao, thách thức. Đã nhiều lần Người tìm đường trở về Tổ quốc nhưng đều không thể thực hiện. Đó là khi Người hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc (những năm 1924 – 1927) và sau đó ở Thái Lan (những năm 1928-1929) – thời kỳ mà thực dân Pháp tìm mọi cách để “tiêu diệt” những người cách mạng ở Đông Dương, đặc biệt là sự lùng sục rất gắt gao nhằm tìm ra tung tích của Nguyễn Ái Quốc… nên mọi “cố gắng đi về An Nam” của Người đều phải “quay trở lại” bởi sự “canh phòng của mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật”[1].
Phải mãi tới lần thứ ba, việc tìm đường về nước của Bác Hồ mới từng bước được thực hiện. Đó là vào đầu năm 1940, khi về hoạt động tại Côn Minh (Trung Quốc), được sự giúp đỡ của những người cách mạng Trung Quốc, Người đã bắt được mối liên lạc với Ban Hải ngoại của Đảng ta. Trong thời gian ở đây, Người thường xuyên chăm lo bồi dưỡng lý luận, nâng cao nhận thức cho cán bộ và hướng các hoạt động của phong trào kiều bào vào việc “đánh Tây”, “đuổi Nhật”. Người đã dành thời gian đi thăm một số cơ sở cách mạng dọc tuyến đường xe lửa Côn Minh – Hà Khẩu để tìm hiểu tình hình, khảo sát, tìm đường về nước.
Giữa lúc này, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển mau chóng, đặc biệt là sự ác liệt và quy mô rộng lớn của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đang mở ra nhiều cơ hội cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới… Vì thế, ngay khi được tin phát xít Đức tấn công nước Pháp (ngày 15/6/1940) và Chính phủ Pháp chấp nhận đầu hàng không điều kiện (ngày 22/6/1940), nhận thấy cơ hội giải phóng cho dân tộc ta đang đến gần, Bác Hồ đã triệu tập ngay cuộc họp với các đồng chí trong Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng ta, phân tích tình hình và chỉ rõ: “Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”[2]
Hội nghị tán thành ý kiến của Người và quyết định: Tìm đường về nước. Đường về nước lúc đầu dự kiến theo hướng Côn Minh – Lào Cai nhưng không thực hiện được do cầu Hồ Kiều nối liền Vân Nam – Lào Cai đã bị quân đội Trung Hoa phá, cắt đứt tuyến đường đường sắt Điền – Việt (Côn Minh – Hải Phòng), cửa biên giới Trung Quốc với Đông Dương bị đóng… nên việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết như tìm hiểu tình hình, nghiên cứu, chọn đường về và hướng xây dựng căn cứ địa… được Bác Hồ cho tiến hành khẩn trương để có thể sớm lên đường về nước.
Cùng lúc này, tình hình ở trong nước diễn ra hết sức sôi động: Pháp đầu hàng Nhật, hệ thống chính quyền tay sai của Pháp ở một số nơi hoang mang, tan rã; nhân dân các dân tộc huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn) nổi dậy vũ trang giành chính quyền, Đội du kích Bắc Sơn được thành lập, nhân dân Nam Kỳ cũng đang ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa… Nhận thấy, một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổ ra, “Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”[3], tháng 11/1940, Trung ương Đảng đã họp hội nghị tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị quyết định: Tiếp tục duy trì đội du kích Bắc Sơn, hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ, chắp nối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận hải ngoại của Đảng. Công việc trọng yếu này giao đồng chí Hoàng Văn Thụ phụ trách…
Cuối tháng 10/1940, Bác Hồ cùng một số cán bộ rời Côn Minh về Quế Lâm (Quảng Tây, Trung Quốc). Sau đó, vào hạ tuần tháng 12/1940, Người tiếp tục rời Quế Lâm đi xuống Tĩnh Tây (Quảng Tây) để tìm đường về nước theo hướng mới. Và tại làng Tân Khư (Tĩnh Tây), vài ngày sau Tết dương lịch năm 1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ từ trong nước sang đã gặp được Người ở đây. Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí báo cáo với Người tình hình trong nước và những công việc đang thực hiện, đồng thời đề nghị Người nên chọn hướng Cao Bằng để về nước, vì đó là tỉnh biên giới có phong trào cách mạng sớm, nhân dân giác ngộ cao và đội ngũ cán bộ tương đối vững vàng, liên lạc quốc tế thuận tiện…
Mấy ngày sau, Bác Hồ cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp được đồng chí Hoàng Sâm dẫn đường, qua Nậm Bo xuống Nậm Quang (sát biên giới Việt – Trung). Tại Nậm Quang, Người mở lớp huấn luyện cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam. Chương trình của lớp học rất thiết thực, với các nội dung cơ bản như: Tình hình quốc tế, trong nước; tổ chức đoàn thể quần chúng; cách thức tổ chức, huấn luyện đấu tranh… Vào khoảng giáp Tết âm lịch, lớp huấn luyện kết thúc, Người cùng các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp, Thế An và Hoàng Văn Lộc chuẩn bị gấp rút về nước.
Ngày 1/1 Tết Tân Tỵ (năm 1941), Bác Hồ cùng các đồng chí trong đoàn đi chúc Tết nhân dân hai làng Nậm Quang, Ngàn Tấy. Sớm ngày hôm sau 28/01/1941, tức 2/1 Tết, Người rời Nậm Quang lên đường về nước. Buổi trưa, Người về đến biên giới Việt – Trung, đoạn cột mốc 108. Lòng bồi hồi, xúc động khi đặt bước chân đầu tiên lên dải đất quê hương, Người lặng đi trong phút giây thiêng liêng được về với Tổ quốc, với đồng bào sau gần ba mươi năm xa cách. Phút giây đó, sau này được Người kể lại: “Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động”[4]…
Những ngày đầu về nước, Bác Hồ ở lại nhà ông Lý Quốc Súng (Máy Lỳ), dân tộc Nùng, ở thôn Pác Bó. Sau đó, để tiện cho công tác, Người chọn hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là “đầu nguồn”) một hang núi kín đáo ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, làm nơi đứng chân đầu tiên. Hang ăn thông ra một con đường kín dẫn sang bên kia biên giới, có thể rút lui an toàn khi bị lộ. Từ ngày 8/2/1941, Người bắt đầu sống và làm việc tại đây và nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới.
Ngày ngày, Người dậy sớm tập thể dục, leo núi rồi xuống suối tắm, sau đó bắt tay vào công việc. Có khi xuống làng hỏi chuyện đồng bào, có khi lên núi hái củi cùng anh em, tối về tranh thủ bồi dưỡng kinh nghiệm hoạt động cách mạng cho cán bộ…
Trước sự biến động sâu sắc của tình thế cách mạng trên thế giới nói chung, đặc biệt là phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật của nhân dân ta đang trên đà phát triển, sau một thời gian tìm hiểu nắm bắt tình hình chung, nhận thấy thời cơ thuận lợi đang đến gần, đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách kịp thời, chỉ đạo sát sao, nhạy bén và tập trung hơn nữa để thúc đẩy phong trào quần chúng, tập hợp cho được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc khi thời cơ đến, với danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, tháng 5/1941, Bác Hồ đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị đã làm việc từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại một cái lán bên dòng Khuổi Nậm (Pác Bó). Trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình, đặc biệt là tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, Hội nghị đề cập nhiều vấn đề quan trọng, như: cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng “giải phóng dân tộc”; kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là “phát xít Pháp – Nhật và các lực lượng phản cách mạng tay sai cho chúng”; nguyện vọng của nhân dân Đông Dương lúc này là “đánh đuổi Pháp – Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập”… Hội nghị nhất trí cần giương cao ngọn cờ độc lập và có sự thay đổi cả về chiến lược, sách lược cách mạng nhằm động viên toàn dân cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu lớn lao ấy. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[5].
Hội nghị cũng đã đề ra nhiều biện pháp về tư tưởng, chính trị và tổ chức để động viên mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta để tập trung tất cả sức mạnh cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.Trên cơ sở những kinh nghiệm thực tiễn đã được tổng kết qua việc tổ chức thí điểm các hội quần chúng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… ở Cao Bằng, theo đề nghị của Bác Hồ, Hội nghị đã quyết định thành lập thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời với Tuyên ngôn và Chương trình cụ thể, nêu rõ những chính sách cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục, xã hội, ngoại giao và các chính sách cụ thể đối với các tầng lớp nhân dân nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước:
1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
2. Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn sung sướng, tự do [6].
Để động viên các giới đồng bào thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng, tham gia xây dựng và không ngừng mở rộng Mặt trận Việt Minh, ngày 6 tháng 6 năm 1941, Bác Hồ viết thư Kính cáo đồng bào, gửi đến các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Sau khi nêu lên nỗi khổ cực của dân ta “một cổ hai tròng”, đã “làm trâu ngựa cho Tây” lại phải “làm nô lệ cho Nhật” và khơi dậy truyền thống oanh liệt của các bậc anh hùng cứu quốc tiền bối, Người kêu gọi hơn hai mươi triệu con Lạc cháu Hồng: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết”; “Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng… Chúng ta hãy tiến lên! Toàn thể đồng bào tiến lên. Đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”[7]
Cùng trong quá trình này, một vấn đề quan trọng được Bác Hồ đặc biệt quan tâm là mở các lớp huấn luyện để đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Tiếp sau các lớp huấn luyện trên đường về nước, Người đã cho mở những lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ địa phương, có lớp chỉ ngày đến một tuần lễ, mà nội dung tập trung vào ba điểm: Tình hình thế giới và trong nước, Chủ trương chính sách mới của Đảng và Chương trình, Điều lệ Việt Minh và phương pháp công tác. Với tầm nhìn chiến lược xa rộng, Người đã yêu cầu chọn một số thanh niên ưu tú ở Cao Bằng gửi đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu (Trung Quốc), mở lớp huấn luyện quân sự, tổ chức một đội vũ trang thoát ly đầu tiên ở Cao Bằng… nhằm chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho công cuộc khởi nghĩa vũ trang sau này. Không chỉ trực tiếp tham gia giảng bài tại các lớp học, Người còn biên soạn một số tài liệu quan trọng phục vụ cho công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ, như: Cách đánh du kích; Lịch sử nước ta; Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô tóm tắt…Đây là những tài liệu đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đặc điểm chung của các lớp huấn luyện do Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo trong thời kỳ này là: dù thời gian dài hay ngắn, học viên nhiều hay ít, bao giờ Người cũng chuẩn bị rất chu đáo nội dung huấn luyện, nắm rất chắc tình hình cách mạng và trình độ học viên; những vấn đề trừu tượng, phức tạp luôn được Người diễn giải bằng một hình thức giản dị, dễ hiểu, liên hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tế, học đến đâu hành đến đấy; nội dung huấn luyện được sắp xếp khéo léo từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ mục tiêu đấu tranh trước mắt đến lâu dài; công việc giáo dục, huấn luyện được Người tiến hành không chỉ ở trên lớp học mà cả trong công tác và trong sinh hoạt hàng ngày. Nhờ đó, mà mỗi bài giảng của Người luôn thiết thực và đạt hiệu quả cao, học viên ai nghe cũng thấy hiểu và bổ ích vì cô đọng sâu sắc. Những lớp cán bộ được Bác Hồ huấn luyện hoặc được ở gần Người một thời gian đều thấy mình trưởng thành nhanh chóng về hiểu biết chính trị, trình độ và khả năng công tác, về phẩm chất đạo đức cách mạng…
Như vậy là, sau gần 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, vượt qua biết bao khó khăn, trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua nổi, mong ước được trở về nước cùng đồng bào đấu tranh giải phóng dân tộc của Bác Hồ đã trở thành hiện thực. Dưới sự chủ trì của Người, Hội nghị Trung ương lần thứ tám với sự thay đổi chiến lược, sách lược cách mạng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể của Việt Nam chính là sự hoàn chỉnh nội dung các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và 7 trước đó. Sự thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo này đã đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với bối cảnh cụ thể của cách mạng nước ta, thực chất là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam đã được nêu ra trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt từ đầu năm 1930, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ngày càng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và “rộng rãi đến một trình độ xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử cách mạng nước ta”[8], đưa cách mạng đến thắng lợi “nhanh chóng đến mức làm cho người ta sững sờ”[9] trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 và sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, là đại thắng mùa Xuân 1975…
Với ý nghĩa lớn lao đó, sự kiện Bác Hồ về nước mùa Xuân năm 1941 là một mùa xuân đặc biệt trong cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân của Người, vì đó là mùa xuân đầu tiên Bác Hồ trở về Tổ quốc, kết thúc chặng đường dài sau gần ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, hoạt động ở nước ngoài, để rồi từ đó trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cùng Đảng ta đem lại những mùa xuân cho dân tộc.
Xuân này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm tròn 80 Xuân ngày Bác Hồ về nước (28/1/1941 – 28/1/2021). Càng nhớ Bác Hồ, chúng ta càng nhớ những lời dạy của Người và lớp lớp cán bộ ngày ấy được Người bồi dưỡng, huấn luyện trở thành những người đã đưa đường lối chính sách của Đảng, tư tưởng đạo đức Bác Hồ đến với quần chúng, tổ chức, giáo dục và đưa họ ra đấu tranh từ thấp đến cao, tiến dần từng bước đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền, xây đời sống mới… Đó chính là bài học từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và của cả dân tộc để mỗi người chúng ta hôm nay thực hiện tốt hơn Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, tạo thành nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn dân cùng thi đua, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, xứng đáng với lòng mong ước của Bác Hồ kính yêu: Xây dựng một mước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh./.
Bảo tàng Hồ Chí Minh